Di sản văn hóa

Tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa

20/03/2025 04:05

Sinh thời, Chủ tịch Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm công tác bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa trong sự nghiệp xây dựng văn hóa nước nhà. Trong bối cảnh mới hiện nay, những quan điểm của Người cần tiếp tục được vận dụng sáng tạo, linh hoạt, qua đó góp phần phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, để văn hóa thực sự là nền tảng tinh thần của xã hội, là sức mạnh nội sinh cho sự phát triển.

Tư tưởng và đạo đức của Người là tài sản vô giá của Đảng và dân tộc ta. Tư tưởng của Người không chỉ thể hiện trong bài nói, bài viết mà còn thể hiện trong lối sống và cả cuộc đời hoạt động cách mạng của Người. Những lời căn dặn, chỉ bảo của Người trong lĩnh vực di sản văn hoá mãi là kim chỉ nam cho mọi hoạt động của những người công tác trong lĩnh vực bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hoá nói chung và lĩnh vực bảo tàng nói riêng, tư tưởng của Người ngày nay vẫn còn nguyên giá trị để chúng ta học tập và làm theo.

Năm 1945, sau hơn 2 tháng đọc bản Tuyên ngôn độc lập, ngày 23/11/1945, Người đã ký ban hành Sắc lệnh số 65/SL về việc Ấn định nhiệm vụ của Đông phương Bác cổ Học viện. Sắc lệnh số 65/SL khẳng định việc bảo tồn cổ tích "là việc rất cần trong công cuộc kiến thiết nước Việt Nam" (khái niệm "cổ tích" trong Sắc lệnh ngày nay được gọi là di sản văn hóa, gồm di sản văn hóa phi vật thể và di sản văn hóa vật thể). Sắc lệnh ghi rõ: “Bảo tồn tất cả cổ tích trong toàn cõi Việt Nam... Cấm phá hủy những đình, chùa, đền, miếu hoặc những nơi thờ tự khác, những cung điện, thành, quách cùng lăng mộ chưa được bảo tồn. Cấm phá hủy những bi ký, đồ vật, chiếu sắc, văn bằng, giấy má, sách vở có tính cách tôn giáo hay không, nhưng có ích cho lịch sử mà chưa được bảo tồn”. Sắc lệnh được ban hành trong những ngày đầu thành lập Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, đó là cơ sở pháp lý đầu tiên đã đặt nền móng cho sự nghiệp bảo tồn di sản văn hóa dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá cao giá trị vật chất cũng như giá trị tinh thần của các di sản văn hóa và coi đó là những báu vật kết tinh từ tư tưởng, tài năng và sự sáng tạo của dân tộc.

Sắc lệnh số 65/SL tuy ngắn gọn nhưng súc tích, phản ánh những tư tưởng, quan điểm rất cơ bản, sâu sắc của Nhà nước ta đối với việc bảo tồn di sản văn hóa. Điều đó cho thấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh thấu hiểu giá trị vật chất cũng như giá trị tinh thần của các di sản văn hóa, đó là những báu vật kết tinh từ tư tưởng, tài năng sáng tạo của dân tộc Việt Nam. Việc ban hành sắc lệnh số 65/SL về di sản văn hoá thể hiện rất rõ tình yêu quê hương, đất nước và tầm nhìn chiến lược của nhà lãnh đạo uyên bác đối với di sản văn hoá Việt Nam.

Người cho rằng di sản văn hóa nước nhà có vị trí và vai trò quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước, về tính kế thừa trong phát triển văn hóa, về trách nhiệm của Nhà nước, xã hội và mỗi công dân trong việc bảo vệ di sản văn hóa. Đối với lĩnh vực di sản văn hóa có rất nhiều câu nói, bài viết và quan điểm của Người về việc bảo tồn di sản văn hóa dân tộc. Tuy nhiên, trong khuôn khổ bài viết này, tôi xin nhắc đến một số lời dạy tiêu biểu của Người trong công tác bảo tồn giá trị di sản văn hóa, trong đó Người rất quan tâm đến lĩnh vực bảo tàng. Việc xây dựng và phát triển bảo tàng, bởi nơi đây chính là trường học tốt về lịch sử, đích thân Người đã đến duyệt lại nội dung trưng bày Viện Bảo tàng Cách mạng trước ngày mở cửa. Trong buổi nói chuyện với cán bộ, bộ đội, công nhân, nhân viên tham gia xây dựng Viện Bảo tàng Cách mạng Trung ương, ngày 05/01/1959, Người đã dặn dò “Viện Bảo tàng Cách mạng cũng như cuốn sử. Nó cho ta thấy rõ ông cha ta đã khó nhọc như thế nào mới xây dựng trên đất nước tươi đẹp như ngày nay…; Đảng và các chiến sĩ cách mạng đã hy sinh như thế nào, nay mới có tự do, có độc lập, có công nghiệp, có nông nghiệp phát triển” .

Trong những lần cùng với một số nguyên thủ các nước đến thăm Bảo tàng Cách mạng Việt Nam (nay là Bảo tàng Lịch sử Quốc gia). Đặc biệt lần đầu tiên cũng là lần duy nhất trong bài viết về Bảo tàng Cách mạng Việt Nam đăng trên báo Nhân Dân số ra ngày 04/7/1959. Người có viết: “Nói tóm lại người đến xem Viện Bảo tàng cần vừa xem vừa suy nghĩ và liên hệ với bản thân mình. Các đồng chí phụ trách giới thiệu thì cần nói rõ ý nghĩa cách mạng của những vật trưng bày. Làm như thế sẽ rất bổ ích.” Người còn viết: “Nếu mọi người học tập thấm nhuần tinh thần anh dũng và chí khí kiên cường, học được ở Viện Bảo tàng, mà quyết tâm làm đúng chính sách của Đảng, đi đúng đường lối quần chúng, đặt lợi ích chung lên lợi ích riêng, thì chúng ta nhất định thắng lợi trong mọi việc”; Ngày 20/01/1960 Người đã viết trong cuốn sổ vàng lưu niệm của Bảo tàng Cách mạng“Trưng bày khéo, giải thích rõ. Viện Bảo tàng là một trường học tốt về lịch sử cách mạng của dân tộc Việt Nam ta”.

Ngày 15/02/1965, Người về thăm di tích Côn Sơn – Chí Linh (thuộc tỉnh Hải Dương ngày nay), dừng lại bên tấm bia “Côn Sơn Tư Phúc tự bi”, dịch và giảng giải về nội dung của tấm bia, Người nhắc nhở mọi người cần trân trọng những giá trị di sản văn hóa của dân tộc. Bác đã leo núi Côn Sơn, tới Thanh Hư Động và dừng chân ở Thạch Bàn - nơi Nguyễn Trãi thường ngồi đọc sách, làm thơ và suy ngẫm việc nước. Tại đây, Người căn dặn: “Cán bộ và nhân dân phải bảo vệ tốt di tích lịch sử, trồng nhiều cây để Côn Sơn trở thành nơi tùng lâm đẹp đẽ". Lời căn dặn của Bác cho chúng ta thấy rõ hơn về một lãnh tụ luôn quan tâm tới công tác bảo vệ và phát huy di sản văn hóa dân tộc, luôn nhớ về cội nguồn lịch sử.

Bên cạnh sự quan tâm đến di sản văn hóa vật thể, Người cũng dành sự quan tâm sâu sắc đến di sản văn hóa phi vật thể của dân tộc, đó là những tác phẩm văn học, nghệ thuật cổ điển, nghệ thuật truyền thống của dân tộc. Những câu hò, lời ca, điệu ví quen thuộc, vốn rất đặc trưng tiêu biểu cho văn nghệ dân tộc như: hát tuồng, chèo, hát ví, hát dặm để nhắc nhở những người làm công tác văn hóa về thái độ trân trọng vốn di sản văn hóa dân tộc. Người cũng thường nhắc nhở mọi người, đặc biệt là những người làm nghệ thuật phải luôn biết trân trọng, bảo tồn và phát huy giá trị của di sản dân tộc. Người căn dặn văn nghệ sĩ phải tôn trọng, giữ gìn và phải phát triển cho hết cái hay, cái đẹp của di sản văn hóa dân tộc. Trong kho tàng di sản văn hóa dân tộc của nước nhà, Người am hiểu sâu sắc nhiều lĩnh vực văn hóa nghệ thuật truyền thống dân tộc như: Dân ca, âm nhạc, thơ ca cổ điển. Người không chỉ yêu thích những làn điệu dân ca mà còn nhớ, thuộc dân ca quê hương, đất nước đến kỳ lạ.

Đối với việc bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc nói chung và di sản văn hóa nói riêng, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh đến yếu tố kế thừa, chọn lọc và phát triển để giữ gìn vốn văn hoá quý báu của dân tộc, khôi phục những yếu tố tích cực trong kho tàng văn hoá dân tộc, loại bỏ những yếu tố tiêu cực trong đời sống văn hoá tinh thần của nhân dân, những cái cũ phiền phức, phát triển những cái cũ mà tốt, phải triệt để làm những cái mới và hay, phải tẩy sạch những gì mà giáo dục thực dân để lại. Người cho rằng “Càng thấm nhuần chủ nghĩa Mác - Lênin bao nhiêu thì càng phải coi trọng những truyền thống văn hoá tốt đẹp của cha ông bấy nhiêu”.

Người không phủ nhận sự tác động, ảnh hưởng lẫn nhau của văn hoá các dân tộc mà ngược lại, khẳng định sự giao hoà giữa các nền văn hoá của các dân tộc khác nhau lại thúc đẩy sự phát triển văn hoá của mỗi dân tộc, làm cho nó hoàn thiện hơn, phong phú hơn. Mặc dù, Bác đã đi xa, nhưng những đóng góp to lớn của Người đối với sự nghiệp bảo tồn và phát huy di sản văn hóa dân tộc vẫn còn nguyên giá trị thực tiễn, góp phần vào sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về giữ gìn và phát huy di sản văn hóa của dân tộc không chỉ là “Kết tinh truyền thống văn hóa hàng ngàn năm của nhân dân Việt Nam” mà còn có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc, là những chỉ dẫn quý báu của Đảng và nhân dân trong việc nhận thức và giải quyết những vấn đề đặt ra trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước hiện nay.

Thực hiện quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về giữ gìn và phát huy các di sản văn hóa dân tộc; căn cứ Luật Di sản văn hóa năm 2001 và Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Di sản văn hóa năm 2009; căn cứ tình hình thực tế tại địa phương và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh lần thứ IX, nhiệm kỳ 2020 – 2025 đã xác định rõ: Phát triển văn hóa - xã hội đồng bộ với phát triển kinh tế, làm nền tảng cho Thành phố phát triển bền vững, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là mục tiêu, nền tảng cho Thành phố Hồ Chí Minh phát triển nhanh và bền vững; mặt khác, ngày 08/12/2019, Hội đồng nhân dân Thành phố ban hành Nghị quyết số 52/NQ-HĐND về kết quả giám sát việc bảo tồn di sản và cảnh quan kiến trúc đô thị trên địa bàn Thành phố. Do đó, việc bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa trên địa bàn Thành phố trong tình hình hiện nay, cần thực hiện bốn nội dung sau:

Một là, bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa kết hợp chặt chẽ với bảo vệ an ninh, chính trị, củng cố quốc phòng, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội.

Hai là, bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa đảm bảo phát triển hiệu quả và bền vững, gắn chặt với nhiệm vụ bảo vệ môi trường, gìn giữ và tôn tạo cảnh quan môi trường xung quanh.

Ba là, bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa để làm động lực thúc đẩy các ngành khác phát triển, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế.

Bốn là, thu hút mạnh mẽ các thành phần kinh tế, nguồn lực từ người dân trong việc xã hội hóa hoạt động di sản văn hóa.

Giải pháp để bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa theo hướng bền vững trên địa bàn thành phố

Trong thời gian tới, để nâng hiệu quả công tác bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa trên địa bàn Thành phố, cần thực hiện đồng bộ một số giải pháp như sau:

  •  Đẩy mạnh vai trò lãnh đạo của các cấp ủy Đảng: tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo của các cấp ủy Đảng trong bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa trên địa bàn Thành phố thông qua các nội dung như: lãnh đạo chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội từ Thành phố đến cơ sở triển khai tổ chức thực hiện có hiệu quả Luật Di sản văn hóa, các văn bản chỉ đạo của Trung ương, của Thành phố về công tác bảo tồn, giữ gìn và phát huy giá trị của di sản văn hóa; lãnh đạo công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức của cán bộ, công chức và người dân về vai trò, ý nghĩa nhân văn sâu sắc của di sản văn hoá với phương thức ban hành các văn bản chỉ đạo, theo dõi, đôn đốc việc tổ chức thực hiện và tăng cường kiểm tra, giám sát, kịp thời phát hiện, biểu dương, khen thưởng các tổ chức, cá nhân có thành tích, đồng thời xử lý nghiêm những trường hợp vi phạm, xâm hại, hủy hoại giá trị di sản văn hóa.

-  Tăng cường tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa:  Công tác thông tin, tuyên truyền cần được thực hiện phong phú, đa dạng bằng nhiều hình thức như: trao đổi trực tiếp, truyền thanh, trực quan, xuất bản ấn phẩm, tổ chức biểu diễn tiểu phẩm trong các chương trình văn nghệ…; dành kinh phí và thực hiện xã hội hóa để công tác thông tin tuyên truyền được thực hiện thường xuyên và đạt chất lượng cao.

-  Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về di sản: Cần chủ động và sáng tạo trong tham mưu thực hiện nhiệm vụ trong quản lý nhà nước về văn hóa từ Thành phố đến cơ sở; xác định rõ thẩm quyền quản lý di sản văn hóa, tránh tình trạng chồng chéo, đùn đẩy trách nhiệm. Đây là giải pháp cụ thể với nhiều nội dung cần chú trọng giải quyết, như: Ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quản lý hành chính nhà nước về bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa; Nâng cao chất lượng hoạt động của các Ban Quản lý di tích, Ban Quý tế, Ban Trị sự…; Tiến hành khảo sát, kiểm kê, nghiên cứu, đánh giá lại toàn bộ các loại hình di sản; Lập quy hoạch di sản văn hóa trọng điểm và di sản văn hóa gắn với du lịch. Các di sản văn hóa trọng điểm là những di sản văn hóa đang xuống cấp, đang có nguy cơ mai một hay biến mất cần có kế hoạch lưu giữ, bảo vệ ngay. Hoạt động du lịch khai thác các di sản văn hóa mang lại hiệu quả thì cần có sự gắn kết với các dịch vụ như: các công trình thể thao, giải trí, ẩm thực và đi kèm với nó cần có một hệ thống dịch vụ tài chính, thương mại, thông tin viễn thông... Kết hợp du lịch biển và du lịch văn hóa, tâm linh, sinh thái cộng đồng với các hoạt động chủ yếu như tổ chức thường niên các lễ hội, giới thiệu với du khách đến tham quan về truyền thống lịch sử văn hóa, phong tục tập quán, tín ngưỡng tôn giáo ở địa phương.

- Về xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức: đây là giải pháp rất quan trọng nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ thực thi nhiệm vụ công tác bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa.

- Phát huy vai trò của cộng đồng: Tiếp tục tạo điều kiện và vận động nhân dân tích cực tham gia hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa. Tuyên truyền, giáo dục, vận động người dân để nâng cao nhận thức, trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi của mình trong hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa.

- Xây dựng cơ chế chính sách đầu tư, tạo các cơ chế để huy động tối đa các nguồn lực đầu tư cho bảo tồn và phát huy giá trị giá trị di sản văn hóa, đặc biệt là nguồn vốn tu bổ, tôn tạo các di tích lịch sử - văn hóa.

-  Cân đối, hài hòa giữa bảo tồn di sản với phát triển kinh tế - xã hội: đây là khuynh hướng ứng xử với di sản lý tưởng nhất và được khuyến khích nhất, như vậy, sẽ đạt được "mục tiêu kép" vừa bảo vệ được di sản, vừa đạt được mục tiêu kinh tế.

-  Vai trò của các nhà khoa học, chuyên gia, phản biện xã hội trong bảo tồn và phát huy di sản văn hóa: để công cuộc bảo tồn và phát huy giá trị di sản gắn với phát triển bền vững đạt được hiệu quả cần huy động trí tuệ, công sức, sáng kiến của toàn xã hội từ nhiều phía: nhà quản lý, cộng đồng, các cơ quan truyền thông, các nhà khoa học, chuyên gia trong lĩnh vực di sản.

    - Khuyến khích sự sáng tạo và đổi mới trong hoạt động bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa.

    - Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa.

  Những quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về bảo tồn và phát huy di sản văn hóa của dân tộc không chỉ là sự kết tinh truyền thống văn hóa hàng ngàn năm của nhân dân Việt Nam mà còn có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc. Những di huấn của Người đã thành những chỉ dẫn quý báu cho Đảng và nhân dân trong việc nhận thức và giải quyết những vấn đề mới đặt ra trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước hiện nay. Và cuộc đời, sự nghiệp, nhân cách của người cũng chính là di sản văn hoá vô giá của dân tộc và nhân loại, sống mãi và lan tỏa trong tâm thức người dân Việt Nam và bạn bè quốc tế.

Trần Thị Huyền - Phòng DSVH
Tags:
Tin mới hơn
Thống kê
Tổng số lượt truy cập: 12522198